Teya Salat

Thời sự 24h.wapgem.com

giaitri24h.wapgem.com

»º♥∴☆∴♥º«
giaitri24h.wapgem.com


Bạn đang ở :
United States



Trang 314 tới 336



Cho Ông Tham-Tá NGÀ



( con của Ông Đốc-phủ Lê-quang-Liêm tức Bảy )



Lòng buồn gặp kẻ xa-xôi,

Lân-la đến chốn buôn mồi vinh-hoa.

Xả thân tìm kiếm ma-ha,

Chẳng nài viễn-vọng dẹp tà nơi tâm.

Nay gặp bạn tri-âm tri-kỷ,

Cho những điều thiện mỹ cổ lai.

Đừng nên sớm vội lợt phai,

Xe dây cho chặt mà nài tánh linh.

Nền đạo-đức sắc thinh chớ mến,

Có thuyền từ đưa đến non Tiên.

Cứu người hữu phước thiện-duyên,

Về nơi cõi Phật khỏi miền trần ai.

Kẻ ác-đức hậu lai khổ thảm,

Mắt phàm trần tường lãm hồ binh.

Mấy lời dặn bảo đinh-ninh,

Gắn-ghi chạm dạ Long-Đình được xem.

Mùi đạo-diệu gỏi nem khó sánh,

Chốn trà-đình xa lánh vãng lai.

Tu hành nào luận mặn chay,

Miễn tâm thanh-tịnh gặp ngày an cư.



Trang 314



Nền đạo-đức vị tư bất nhã,

Ta đừng phân nhơn ngã mới hay.

Nhìn đời thế thái đổi thay,

Hết vinh tới nhục lẽ nầy thường xưa.

Đời (1) vật-chất văn-minh chiều-chuộng,

Vì thi lai vận bĩ trải qua.

Lòng sắt-son đây đó nõn-nà,

Tâm não bít bê-tha chậm trễ.

Tu với tỉnh bảo toàn thân-thể,

Giữ đừng mòn linh tánh mới hay.

Nỗi bút-nghiên phận Lão cạn bày,

Câu diệu-lý cơ-huyền khó kiếm.

Sá chi kẻ dùng lời bao-biếm,

Chê Điên Khùng khó kiếm cho ra.

Não tâm tràng sớm dứt ái-hà,

Nên phải vội lìa xa cõi tạm.

Quyết chỉ nẻo lánh vòng hắc ám,

Đạo và đời thăm-thẳm sâu-xa.

Diệm Hồng-Liên thơ-thớ quần ca,

Tạo duyên giả phàm gian thân giả.

Chớ lấy đó mà tâm buồn-bã,

Hiệp-hòa nhau chờ đợi năm non.

Kìa hỡi ai giữ phận cho tròn,

Sau huynh-đệ có ngày hòa-hiệp.



Trang 315



Chớ nản chí đưng tu bỏ líp,

Trổi bước sang gặp Lão thế ngôn.

Trổi hùng phong cốt-cách duy tồn,

Xác tuy mất hồn thiêng chẳng mất.

Lão cũng tỏ đôi lời khờ-khật,

Câu huyền sâu cho đó ngụ ngôn.

Mã song phi viễn-vọng tâm hồn,

Hành thế lữ đêm dài cạn tỏ.

Giết cho sạch những loài sâu bọ,

Giống hại người lúc bỏ rẫy trồng.

Huệ tâm khai ngữ chuyển huyền thông,

Sanh hồi thiện đôi câu thành-thật.

Đêm vắn tắt vài lời để cất,

Gác ngòi nghiên tạm biệt phàm gian.

Rạng vừng mây bóng thỏ lạc nhàn,

Đeê chuyến khác cạn câu hoài vọng.

Dậm tràng đó mới chuyến sang chơi,

Tỏ ý Thần Tiên khá nhận lời.

Huyền-pháp thâm-trầm thơm bất tuyệt,

Vô-vi chánh Đạo hỡi người ôi !



*

* *

Người ôi ! chơn-lý thậm lâu đời,

Thâm cảnh diệu-huyền hẹn một nơi.

Hòa mặt Trung-Ương tam điệp khách,

Đợi chờ thiên-luật mới về ngơi.



*

* *

Về ngơi chốn ấy rõ như lời,

Nào Lão có bày chuyện khuấy chơi.

Trang 316

Vẽ việc Tri xanh cho đó biết,

Một lòng g¡n chặt chẳng xa lơi.



*

* *

Xa lơi đạo-đức khổ tâm à !

Học cũ ít bài Lão thiết-tha.

Bóng xế tà tây ôi ! lắm thể,

Dạ hiền cất bút mượn thi ca.



*

* *

Thi ca nhiều nẻo thậm rồi đa,

Hồi tị sứ thần dạy chuyện xa.

Lánh thế chẳng bày danh Lão sĩ,

Ngày nay các chỗ ngộ cuồng-ca.

Hòa-Hảo, lối tháng 2 Canh-Thìn

( trong lúc ban đêm )

*

KHUYÊN NGƯỜI

GIÀU LÒNG PHƯỚC-THIệN



Mắt nhìn Kỷ-Mão vừa qua,

Gẫm trong thiên hạ nhiều nhà thiếu cơm.

Ruộng đồng chẳng có rạ rơm,

Trâu bò ngóng cổ nhà nông héo lòng.

Canh Thìn bước tới thiệt Rồng,

Trông cho mùa khác ruộng đồng ra sao.

Nhà nghèo dạ tợ như bào,

Vợ đau con yếu phương nào cho an.

Cả kêu cùng khắp xóm làng,

Mấy ông điền chủ cứu nàn mới qua.



Trang 317



Làng gần chí những tỉnh xa,

Lúc xưa thì cũng ruột-rà với nhau.

Ngày nay tốt phước sang giàu,

Xin thương kẻ khó giúp hào một khi.

Cậu cô chú bác cùng dì,

Khắp nơi thầy chú một khi hảo lòng.

Việc nhà quí bạn đã xong,

Hiệp nhau làm phước rõ lòng hiền nhơn.

Lão đây thân khó chẳng sờn,

Tỏ lời khuyến-khích tợ đờn Bá-Nha.

Ông nào lòng dạ hải-hà,

Động tình bác-ái ra mà làm đi.

Giúp người đói khó nhu-mì,

Dạy nó tâm trì niệm Phật làm ngay.

Bà nào góa bụa hữu tài,

Tiền nhiều đất rộng cò bay mút đồng.

Cơn nầy bố thí cho xong,

Để khi nhắm mắt bên chồng giành chia.

Ông bang các chợ, xẩm hia,

Tiệm hàng thạnh-mậu nhờ dân ruộng vườn.

Ngày nay thất-bát khá thương,

Tiền-nong chẳng có cơm lường cho qua.

Mắt nhìn lòng ứa ruột-rà,

Cả kêu bổn-đạo ai là thiệt tu.

Muốn cho rắn đặng hóa cù,

Xả thân làm phước Diêm-phù vượt qua.

Giữ bo đến lúc phong ba,

Gặp cơn bát-loạn khó mà yên thân.

Phong-trần ai cũng phong-trần,

Được sang nhờ của người bần góp thâu.



Trang 318



Thấy đi lao-lý mà rầu,

Giúp cho chúng nó ngõ hầu làm ơn.

Xin quên mấy lúc giận hn,

Ra tay tế-độ nghe đn Tây-qui.

Xây vần tri đất tiết thì,

Hết cơn bĩ cực tới kỳ thới lai.

Cổ kim hiếm lúc nạn-tai,

Hưng vong suy thạnh bằng nay lẽ thưng.

Lớn ròng nạn ách phải vương,

Muốn qua truông khổ tìm đưng Bồng-Lai.

Ngày kia được trở gót hài,

Về nơi Tiên cảnh ngàn ngày đẹp tươi.

Giàu sang nghèo khó cũng người,

Nên ta thương hết dầu cười hay khen.

Lòng nhơn xin khá tập rèn,

Thạch-Sùng Vương-Khải sách đèn ai ưa.

Thánh hiền roi tích đời xưa,

Nhờ tâm từ-thiện người ưa kính thờ.

Chết rồi bỏ của bơ-vơ,

Chi bằng làm phải truyện thơ ghi đời.

Xác phàm có mấy lăm hơi,

Hỏi vay có một mà lời đôi ba.

Của dư cho mượn mới là,

Hảo tâm bố-thí ngọc-tòa được lên.

Chê nghèo, giàu nọ đâu bền,

Chi bằng bố đức lập nền từ-bi.

Con hiền khá sớm hồi-qui,

Nghe lời Thầy dạy kịp thì bớ dân.

Dòm xem kẻ khó tảo-tần,

Rộng tâm sang-sớt dắt lần với nhau.



trang 319



Nghèo thi cũng rán cháo rau.

Chớ đừng gian-xảo ngày sau thanh-nhàn.

Bần cùng cũng sớm liệu-toan,

Giữ tâm ngay thảo xóm làng mến yêu.

Mộ khan thần tỉnh cần triêu,

Khỏi cơn hoạn-nạn Lam-kiều được lên.

Ít ai giữ đặng chí bền,

Tu theo nước lớn, ròng bèn thả trôi.

Tuy xa mà tới mấy hồi,

Đất còn lở thét phải bồi tự-nhiên.

Thảm thương cho kẻ tá-điền,

Gặp cơn lúa ngập của tiền ráo tay.

No chiều rồi lại đói mai,

Gia bần trí đoản đắng cay nhiều bề.

Lo tròn cha mẹ nhi thê,

Nhằm năm lưng túc não-nề tâm trung.

Khá thương những kẻ bần cùng,

Tâm lành dư của hãy dùng vào đây.


*

Sột-sột nhà sau mụ vét nồi,

Ông chồng quần áo rách lôi-thôi.

Bầy con ngơ-ngác đòi xơi bữa,

Lũ nhỏ giành nhau lấn chỗ ngồi.

Khua đũa mèo mun ng chủ thảo,

Muỗng rơi chó vện tưởng cho mồi.

Lầm than đói khó vì tai-ách,

Hỡi kẻ sang giàu cứu nạn trôi.



*

* *

Nạn trôi lúa ngập đói còn xa,

Điền chủ mau mau nghĩ tận mà !



Trang 320



Tế-độ dân nghèo trong lúc túng,

Giúp giùm kẻ rối buổi vừa qua.

Có ăn dư huệ nh thân nó,

Nghèo khổ bần-phu thảm dữ a !

Nếu đã xả thân tầm đạo-đức,

Mở lòng bố thí ngộ thần ca.



*

* *

Tỏ lời nhắn-nhủ khắp đâu đâu.

Vạn-vật từ nay luống thảm-sầu.

Áo-não thương đời đa đói khổ,

U-buồn trăm họ vẽ vài câu.



Hòa-Hảo, ngày 25-2 Canh-Thìn

( Đức Thầy viết bài nầy đ kích-thích lòng bác ái

của những bà giàu có ở xứ xa đến viếng Ngài )



DẶN-DÒ BỔN-ĐạO



Tháng năm mười tám rõ-ràng,

Cùng xóm cuối làng ai cũng cười reo,

Xuống trần nhằm buổi nạn eo,

Gẫm trong dân-sự còn nghèo chữ tu.

Hạ-nguơn sanh-chúng ám-u,

Tây-Phương sắc lịnh vân-du Nam-kỳ.

Mượn nhằm một xác nhu-mì,

Giảng dân sáu tháng vậy thì xem sao.

Rất buồn bá-tánh biết bao,

Nạn nguy sắp đến mà ngao-du hoài !

Viết ra Giảng Kệ bốn bài,

Giã-từ trần-thế lui hài bôn-phi.



Trang 321



An-Nam phong-hóa lễ-nghi,

Đời nay văn-vật bỏ đi chẳng gìn.

Mảng lo chế nhạo chống kình,

Chẳng toan đạo-đức mà gìn thôn hương.

Ta đây dường thể như lươn,

Cứu dân chẳng nệ nắng sương lấm đầu.

Sáu trăng Thầy tớ dãi-dầu,

Quyết lòng truyền-bá Đạo mầu mà thôi.

Bồng-Lai Điên dại có ngôi,

Tây-Phương Cực-Lạc Khùng ngồi tòa sen.

Từ-bi ngọn đuốc mới nhen,

Giả như mở cửa mà then còn cầm.

Dân tình xài-xể dập bầm,

Nào hay ta đã thương ngầm sanh-linh.

Xác trần Ta mở oai thinh,

Đạo mầu truyền pháp thình-lình không hay.

Trớ-trêu con tạo thày-lay,

Lôi-Âm sắc lịnh đòi rày hỏi-han.

Cúi đầu tâu trước Phật đàng :

Lê dân ngoan-ngạnh xóm làng cừ-khôi.

Đầu đuôi tâu lại khúc nôi,

Một trăm mới đặng ối thôi mười người !

Mảng lo cao thấp ngạo cười,

Bởi chưng trần-hạ biếng lười không lo.

Di-Đà nghe tấu buồn xo,

Vạn dân bá-tánh đắn-đo nhiều bề.

Làm sao cửa Phật dựa kề,

Hung-sùng tàn-ác khó bề dạy khuyên.

Thầy khùng Trò lại hóa điên,

Khùng điên mấy tháng tình riêng ai ngờ !



Trang 322



Tượng xưa dấu cũ còn mờ,

Không lo tìm kiếm bến bờ mà nương.

Nói cho bổn-đạo đặng tường,

Dạy dân nào có gạt lường chi dân.

Chim ô đà dựa cầu Ngân,

Người Xưa trở gót mấy lần ai hay.

Đời nầy chưa vẹn thảo ngay,

Thì là khó thấy mặt mày người Xưa.

Dạy đời nào quản nắng mưa,

Ước mong bá-tánh sớm ưa tu-hành.

Đục trong bốn cuốn ngọn ngành,

Khuyên đời trau-trỉa chữ lành cho xong.

Con người có Tổ có Tông,

Học hay chữ-nghĩa sao không phượng-thờ ?

Hiếu trung truyện tích s-s,

Ngưi đi phải biết phượng-th mẹ cha.

Từ đây ta mắc bôn-ba,

Dời chơn ra Bắc đặng mà dạy khuyên.

Vạn dân nên trọng Phật Tiên,

Dể ngươi lời dạy đọa riêng một mình.

Bắc, Nam chờ đợi cuối Thìn,

Sẽ lo vận-chuyển thân hình xác ta.

Viết thêm một khúc ngâm-nga,

Dặn-dò bổn-đạo vậy mà mấy trương.

Ta dầu có cách thôn-hương,

Vạn dân cứ chữ hiền-lương mà làm.

Thích-Ca còn phế tước hàm,

Lầu cao cửa rộng mà ham tu-hành.

Phật, Tiên dụng kẻ lòng thành,

Đạo chơn thì ít ai hành thiệt tâm.



Trang 323



Trí phàm như chốn sơn-lâm,

Dạy dân như phá rừng cầm cho dân.

Nào đâu dân có biết ân,

Mạnh rồi tưởng Phật vái Thần làm chi.

Đây nầy lời lẽ rán ghi,

Thương đi nên mới làm thi khuyên đi.

Ra đi dặn lại ít lời,

Khuyên trong bổn-đạo vậy thi rán nghe.

Dầu ai tài phép bày khoe,

Ham linh ham nghiệm sợ e mang nghèo.

Lựa cho phải cột phải kèo,

Phải vai phải vế mà theo kẻo lầm.

Ngọc kia ẩn dạng khó tầm,

Chọn nơi chơn chánh khỏi lâm khổ hình.

Ách tri nạn nước thình-lình,

Ngưi hung cứ mãi chống kình với Ta.

Theo tài học cũ nôm-na,

Hỡi ai trí-thức tầm mà cạn sâu.

Lúc nầy chưa thể ngồi lâu,

Tách dời chốn khác ngõ hầu dạy răn.

Tín-đồ cùng các chư-tăng,

Từ rày sắp đến nói năng chọn lời.

Bớt phiền bớt não cuộc đời,

Rán nghe lời dạy vậy thi hành y.

Đạo mầu bát-chánh rán ghi,

Thứ nhứt chánh-kiến việc chi xem nhìn.

Luận bàn chơn-lý cho minh,

Chuyện chi xét đoán xảo tinh mới là.

Thứ nhì chánh-mạng vậy mà,

Việc làm do lịnh tâm hồn khiến sai.



Trang 324



Thứ ba tư-duy bằng nay,

Các điều tưởng nhớ thẳng ngay mới mầu.

Thứ tư chánh-nghiệp mặc dầu,

Nghề chi thì cũng ngõ hầu làm ngay.

Tà gian tánh ấy tù đày,

Của người tham-nhũng nghề nầy chớ ham.

Thứ năm tinh-tấn hội-đàm,

Sạch trong kỹ-lưỡng mà làm mới ngoan.

Thứ sáu chánh-ngữ liệu toan,

Nói năng điều chánh thì an chớ gì !

Thứ bảy chánh-niệm vậy thì,

Khi cầu khi nguyện chuyện gì thành tâm.

Hành y thì đáng vàng mười,

Tùy lòng tùy sức của người đời nay.

Tu-nhơn hiền-hậu cũng hay,

Dạy đời phải viết ngày rày cho tinh.

Rút trong các luật các kinh,

Tùy lòng không ép làm in giảng nầy.

Thấp cao các bực chớ chầy,

Kẻ ngu người trí nghe Thầy dạy khuyên.

Sớm khuya bá-tánh cần-chuyên,

Nghe lời dạy bảo cảnh Tiên dựa kề.

Ít lâu ta cũng trở về,

Khuyên cùng bổn-đạo chớ hề lãng-xao.

Trì lòng chớ có núng-nao,

Từ đây nhơn-vật mòn hao lần-lần.

Trang 325



Mấy lời nhắn lại ân-cần,

Bổn-đạo xa gần nghĩ cạn mới hay.

Tu-trì nguyện-ước cầu may,

Thượng-Nguơn hồi phục là ngày an-cư.

Học câu hỉ-xả đại-từ,

Noi gương nghĩa-sĩ dạ tư chớ gần.

Bôn Nam tẩu Bắc tảo-tần,

Chúng-sanh rán nhớ thì gần cùng Ta.

Xác trần Ta đã rời xa,

Bá-gia ở lại vậy mà bình-an.

Kìa-kìa anh hố hò khoan,

Tình lang về mất hổ-hang mặt-mày.

Sớm lo sắp đặt luyện tài,

Phật Trời phân định mặt mày mới xinh.

Ơn trên lượng rộng thinh-thinh,

Từ-bi khuyến dạy mặc tình nghe không.

Giống hiền như thể gieo bông,

Nhụy đơm thơm phức màu hồng xuê-xang.

Dân ta dòng giống Tiên-bang,

Chớ đâu có giống ngỗ-ngang hung-sùng.

Mặc tình bá-tánh có dùng,

Ai muốn nghe Khùng chép lấy mà coi.

Lấy tâm lấy trí xét-soi,

Thầy đi dạy Bắc thử coi lẽ nào ?

Thôi thôi dân chớ hùng-hào,

Khùng từ bổn-đạo tẩu đào Bắc-đô.



Hòa-Hảo, lối tháng 2 Canh-Thìn

( Chép theo bản chánh do ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ )



Trang 326



MUỐN Rõ ĐạO MẦU



Đạo mầu diệt khổ có từ lâu,

Thần-Tú ra đời lại góp thâu.

Chuông mõ, sám kinh bèn cải sửa,

Xá phướn truyền-lưu lấp Đạo mầu.



*

* *

Niệm chữ A-Di dẹp lòng sầu,

Rán trì kinh-kệ hoặc mau lâu.

Cũng có ngày kia ta giải-thoát,

Giải-thoát thì ta rõ Đạo mầu.



*

* *

Tây-Phương Cực-Lạc Phật hằng-hà,

Ta rán bền lòng Phật chẳng xa.

Trong cõi trần-mê còn mong đợi,

Thấy Phật trì tâm đến năm gà.

Hòa-Hảo, năm Canh-Thìn

*

TRÔNG MÂY



Phiêu-phiêu mây bạc trắng lòa,

Ấy là tại lịnh Ngọc-tòa sai Ta.

Xuống trần thấy chúng thiết-tha,

Vì đâu sắp đến hằng-hà lụy rơi.

Chừng nào mới đặng thảnh-thơi ?

Qua năm Tuất-Hợi Phật Tri định phân.



*

* *

Tây-Vức liên Nam hiệp định phân,

Tam giáo qui nguơn viện lý cân.

Trang 327

Hùng-anh Phiên-quốc lai hang-phục,

Đinh-Hợi đáo niên tạo thiện nhân.



* Hòa-Hảo, năm Canh-Thìn

(trong khi Đức Thầy cảm-hứng)



LÝ-LỊCH

THƯỢNG thẩm Đạo mầu nẻo cao sâu,

ĐẳNG đẳng hãy làm chớ để lâu.

Đại pháp vô-vi là chơn-lý,

THẦN làm trọn vẹn khỏi lo âu.



*

* *

Huỳnh long tự thế gần sanh-chúng,

Bổn tánh Hòa thôn Hảo dĩ đầu.

Tiên-cảnh thoát-ly truyền bá kỷ,

Năng tầm Phật-lý rạch từ câu.



*

* *

Oai hùm chấn-động một góc trời,

Độ chúng ra Kinh rải khắp nơi.

Cứu thế chẳng mong ơn ai trả,

Nương xác phàm-phu ngõ đợi thời.



*

* *

Huỳnh sanh cơ thẩm đáo trung đàn,

Tự giác âm thầm kiến Tiên-bang.

BỬU ngọc SƠN trung KỲ-HƯƠNG chí,

Tứ hải bất hòa khởi liên giang.

Hòa-Hảo, năm Canh-Thìn

*

Trang 328



KHUYÊN SƯ VÃI



Trước đài sen báu ngát hương đăng,

Hai chữ Nam-Mô ấy lẽ hằng.

Thế-sự biếng đua bề lợi-hại,

Tâm-trần rửa sạch mới siêu-thăng.

Khuyên trong sư vãi mau mau tỉnh,

Luân-hồi quả-báo rất công bằng.

Mang tiếng xuất gia sao chẳng liệu ?

Đạo-đức xong chưa hỡi chư tăng ?

Hoà-Hảo, năm Canh-Thìn



<< XUÂN-Hạ TÁC CUỒNG-THƠ >>



Sĩ điềm tịnh tiểu-nhơn lấn-lướt,

Thi-vận hèn dụng nhược thắng cang.

Cầu cho bốn biển bằng-an,

Chúc câu lai-thới xóm làng vĩnh-miên.

Xưng danh hiệu nửa Tiên nửa tục,

Đứng trung-thần gạn đục tầm trong.

Gìn câu thủ cựu gia phong,

Gom nhành lá rụng vun trồng giống xưa.

Tơ lòng nhiều đoạn đẩy-đưa,

Mong ơn Phật-Thánh phước thừa cho dân.

Chúng lấy thuyết vô thần bài-bác,

Quyết một ngày thông đạt địa thiên.

Chúng-sanh nghe thửa lời truyền,

Cùng nhau thảo thuận danh hiền mới thơm.

Dốc chờ ngày sen đơm nhụy trổ,

Khỏi bùn lầy tông-tổ hiển vang.

Bá-Nha hiệp mặt tao-đàn,

Tử-Kỳ trổi giọng khải-hoàn bốn phương.



Trang 329



Lòng chạnh cảm quê-hương nghèo-ngặt,

Các nước ngoài bán mắt hàng lên.

Ơn cha nghĩa mẹ phải đền,

Một ngày hiệp mặt lập nền từ-bi.

Những mơ-ước hồi qui thượng-cổ,

Thì hết câu ái-ố gièm-pha.

Phương Nam rạng ngọc chói lòa,

Lưu-ly hổ-phách mấy tòa đài-cung.

Dành cho kẻ lòng trung chánh-trực,

Quân cùng Thần náo-nức vui-tươi.

Liên-hoa đua nở nụ cười,

Rước tôi lương-đống chào người chơn tu.

Thế-gian thoát chốn ngục-tù,

Thần Tiên hiệp mặt thì cù hóa long.

Mắt nhìn thấy thần thông biến-hóa,

Đức Di-Đà hiện chóa hào-quang.

Việt-Nam là giống Hồng-Bàng,

Không còn hung-bạo lăng-loàn như nay.

Dòm khắp chốn rồng mây chơi giỡn,

Dân hai lòng hết bỡn Khùng-Điên.

Thiên-cơ biến-ảo diệu-huyền,

Hiệp chung tam cõi dưới miền trần-ai.

Bút nghiên hạ viết bài an-lạc,

Dẫu cho người dốt nát cũng nghe.

Kìa kìa con cuốc gọi hè,

Chẳng lo gieo giống đậu, mè, bắp, khoai.

Thi tả cảnh Bồng-lai tại thế,

Mãi chần-chờ e trễ kỳ thi.

Muôn năm Tri định khắc kỳ,

Ngặt ông thất thủ Hạ-bì khó toan.



Trang 330



Ta điên thuở Tam-Hoàng Thượng-cổ,

Khùng thế thi khùng lộ ngoài da.

Ghét dòng con nịnh độc-xà,

Khinh-khi trung nghĩa hải hà lòng nhơn.

Đưng gai gốc thiên sơn vạn hải,

Dẹp cho rồi tướng bái đàn đăng.

Tử-Nha như thể cát-đằng,

Tùng-quân dựa bóng vui bằng hưng Châu.

Các nơi Tiên-trưởng đâu đâu,

Lư-bồng hội hiệp đồng chầu Thánh-vương.

Trụ kia bạo-ác phải nhường,

Võ-Vương hữu đức đường đường trị dân.

Thì rõ việc Phong-Thần trở lại,

Thuyền Đông-Pha lèo lái cánh trương.

Con lành mau lại Phật đưng,

Cùng Thầy cọng hưởng một vườn từ-bi.

Chớ nóng-nảy sân-si hư việc,

Phải đợi thi vua Kiệt hồi qui.

Xử phân những đứa vô nghì,

Mới là khỏa lấp vít tỳ ngọc son.

Khuyên rán giữ cho tròn đời đạo,

Đừng cho loài cầy cáo lung-lăng.

Yêu tinh chực nuốt Đường-tăng,

May nhờ Đại-Thánh phi đằng cứu nguy.

Lôi-Âm tự đưng đi chưa đến,

Nên giữa chừng kẻ mến người khinh.

Thôi thôi Ta để mặc tình,

Dầu ai chê-nhạo phận mình mình toan.

Hòa-Hảo, tháng tư năm Canh-Thìn



Trang 331



TỪ GIÃ BỔN-ĐạO KHẮP NƠI



Canh-Thìn năm thiệt là rồng,

Từ ngày mượn xác trần-hồng đáo lai.

Tháng năm Kỷ-Mão đến nay,

Khắp trong bá-tánh gặp bài Sấm-Kinh.

Lời văn tao-nhã hữu tình,

Bởi vưng sắc-lịnh Thiên-Đình sai Ta.

Xuống trần Lão dụng khuyến-ca,

Đầu đuôi cạn tỏ ngâm-nga ít bài.

Tạm đây Ta mắc lui hài,

Vì trên bệ-ngọc triệu rày hồi-qui.

Không đành tách gót ra đi,

Nên dùng lời lẽ từ thì bá-gia.

Thiên đưng lộ ấy nào xa,

Muốn cho khỏi khổ xem qua lời truyền.

Dấu Xưa noi tích Thánh-hiền,

Thương trần mượn xác bút liền ra cơ.

Thấy trong bá-tánh ngẩn-ngơ,

Nay Thầy xa tớ bơ-vơ một mình.

Gẫm trong hai chữ nhục-vinh,

Xưa nay thiên hạ kệ kinh ít dùng.

Cúi đầu tâu lại cửu-trùng,

Ngọc-Hoàng ban chiếu Lão Khùng giáo dân.

Gái trai lớn nhỏ ân cần,

Chùi lau vẹn mặt thì gần Thánh Tiên.

Tây-Phương đua nở hoa liên,

Chờ người hữu phước thiện duyên từ-hòa.

Nhắn cùng bổn-đạo gần xa,

Ta về âm cảnh thiết-tha tâm tràng.



Trang 332



Đời nay hiếm kẻ nghinh-ngang,

Chẳng kiêng lời lẽ Phật-đàng từ-bi.

Lang-tâm trắc-nết vô-nghì,

Nhỏ không biết nể kính-vì bề trên.

Nhỏ to lời lẽ chớ quên,

Rán mà nguyện vái đặng đền ơn sâu.

Bá gia bá tánh đâu đâu,

Xem lời ta chỉ về cầu tại gia.

Có đau thì thuốc đó mà,

Dòm trong bản chữ về nhà kiếm cây.

Nay Thầy chịu lịnh về Tây,

Tạm ngưng đạo-đức ít ngày Thầy qua.

Dạo trong khắp cõi ta-bà,

Nơi nơi chốn chốn quỉ ma rối loàn.

Chữ rằng : Nhơn thiện vi nan,

Dầu cho tài trí cũng mang nợ trần.

Có đeo bịnh tật vào thân,

Giấy vàng xé nhỏ vái Thần độ vô.

Thành lòng nước lã nên hồ,

Hữu tâm chí đức cam-lồ Phật ban.

Cám thương bá-tánh tai nàn,

Gặp cơn dông-tố nào an lòng nầy.

Đờn Ta vốn thiệt không dây,

Vô duyên khó biết lời Thầy nói xa.

Từ trên tới dưới thuận hòa,

Hay hơn châu báu ngọc-ngà giàu sang.

Thầy về tâu lại Phật-đàng,

Cúi xin nhỏ phước xóm làng bình yên.

Giống nòi thiệt cốt Rồng Tiên,

Mà nay lạc mất gương hiền nơi đâu.



Trang 333



Muốn xem bốn chữ Long-Châu,

Bền gan sắt đá sồng-nâu tu trì.

Tu-hành mà mãi nan nghi,

Sợ Ta gạt-gẫm cũng kỳ cho dân.

Giã từ khắp hết dương-trần,

Vân du chốn cũ lưới Thần bủa ra.

Non cao nhiều thứ cáo-xà,

Trừ loài độc-địa mới là yên thân.

Biết sao cho toại lòng dân,

Kẻ ưa đạo-đức người cần vinh-hoa.

Xót lòng cậy nước ma-ha,

Hớp vô ba hớp ắt là lặng tâm.

Thân Khùng đêm vắng khóc thầm,

Cựa mình cũng nhớ giấc nằm nào an.

Từ nay cách biệt xa ngàn,

Ai người tâm đạo đừng toan phụ Thầy.

Giữa chừng đờn nỡ đứt dây,

Chưa vui buổi hiệp bỗng Thầy lại xa.

Tỉnh say trong giấc mộng hoa,

Mơ-màng cũng tưởng như Ta bên mình.

Tuy là hữu ảnh vô hình,

Chớ dân lòng tưởng sân trình đáo lai.

Nghe sơ lời Lão cạn bày,



Trang 333



Muốn xem bốn chữ Long-Châu,

Bền gan sắt đá sồng-nâu tu trì.

Tu-hành mà mãi nan nghi,

Sợ Ta gạt-gẫm cũng kỳ cho dân.

Giã từ khắp hết dương-trần,

Vân du chốn cũ lưới Thần bủa ra.

Non cao nhiều thứ cáo-xà,

Trừ loài độc-địa mới là yên thân.

Biết sao cho toại lòng dân,

Kẻ ưa đạo-đức người cần vinh-hoa.

Xót lòng cậy nước ma-ha,

Hớp vô ba hớp ắt là lặng tâm.

Thân Khùng đêm vắng khóc thầm,

Cựa mình cũng nhớ giấc nằm nào an.

Từ nay cách biệt xa ngàn,

Ai người tâm đạo đừng toan phụ Thầy.

Giữa chừng đn nỡ đứt dây,

Chưa vui buổi hiệp bỗng Thầy lại xa.

Tỉnh say trong giấc mộng hoa,

Mơ-màng cũng tưởng như Ta bên mình.

Tuy là hữu ảnh vô hình,

Chớ dân lòng tưởng sân trình đáo lai.

Nghe sơ lời Lão cạn bày,



Trang 334



Tuồng đời như cá trong lờ,

Thọc tay vô bắt còn ngờ kẹt hom.

Bao nhiêu tâm não góp tom,

Dặn-dò kỹ-lưỡng chăm-nom khắp cùng.

Chừng nào Tôi được hết Khùng,

Thì là dân-sự còn dùng làm chi.

Bận lòng cạn tỏ vân-vi,

Bớ dân hai chữ công-trì sớm khuya.

Nhớ câu ăn giấy bỏ bìa,

Được thân sung-sướng vội lìa Tổ-Tông.

Kể ra lại bắt mủi lòng,

Ngán đời mua bưởi bán bồng chát-chua.

Cứ theo cái lối a-dua,

Dạ toan đốt miễu phá chùa từ-bi.

Vàng kho thêm gánh ích gì,

Thôi Ta than lắm vậy thì thẹn thêm.

Bóng trăng cậy đỡ ban đêm,

Trầu ăn nhả bã lại têm mời hoài.

Khùng ngồi nói chuyện quá dai,

Bị lòng bác-ái nói hoài chẳng thôi.

Thấy đời mặt lọ không bôi,

Lại khoe kép giỏi một hồi múa men.

Từ nay cửa Khổng gài then,

Chờ Ta trở lại thì đèn hết lu.

Thân Khùng là phận sĩ-phu,

Chẳng ham danh-diệu miễn tu vuông tròn.

Khôn thì lánh chốn đau đòn,

Dại thì lòn cúi đồ ngon ăn thừa.

Hai lòng uốn lưỡi đẩy đưa,

ỷ hơi Hạng-Võ mắc lừa Trương-Lương.



Trang 335



Nhớ qua hồi lúc đời Đường,

Hiền thần Nhơn-Quí người đương ẩn mình.

Cửu-Thiên còn giấu tại dinh,

Chờ ngày mãn hạn phép linh ban rày.

Giảng Kinh đọc tụng chiều mai,

Làm theo lời chỉ ngày rày gặp Ta.

Xác trần để lại làng Hòa,

Lời thăm bốn phía Ngọc-tòa Ta lui.

Âm-dương cách trở xa-xuôi,

Nhắn cùng bá-tánh chớ nguôi tấc lòng.

Phận Khùng thân hỡi long đong,

Còn lo cho thế hai lòng toan mưu.

Ta không gây oán kết cừu,

Cớ sao dân-sự phiền ưu nỗi gì ?

Khoa tràng lịnh mở hội thi,

Nên Ta xuống bút dạy thì trần-gian.

Chớ mình hồn dựa lâm-san,

Thảnh-thơi còn xuống thế-gian làm gì ?

Ước-mơ Thượng-cổ hồi qui,

Thế-trần no ấm phú thi an-nhàn.

Quân-thần, phụ-tử vinh-vang,

Hết lo cay đắng, Khùng an phận Khùng.

Tới đây từ biệt khắp cùng,

Thầy lìa khỏi xác Thiên-cung phản hồi.

Đục trong cạn tỏ khúc nôi,

Thấy dân tu dối nghĩ thôi bận lòng.

Lang tâm như thú thiếu lông,

Trớ-trêu cửa miệng trong lòng gươm đao.

Ra đi chẳng nệ công-lao,

Chẳng hờn không giận, hùng-hào còn ganh.



Trang 336



Hiệp chung một cội nhánh-nhành,

Sum-sê lá thắm chim xanh nối đường.

Từ-bi tình ấy đoạn-trường,

Kể qua tích cũ mà lường lòng đây.

Như ai có đọc đoạn nầy,

Xin đừng chê nhạo rằng Thầy nói nhăng.

Muốn sao có phép phi đằng,

Cũng như Đại-Thánh, Đường-Tăng thoát nàn.

Rưng-rưng nước mắt hai hàng,

Lánh nơi cõi tục Phật-đàng lui chơn.



*

Hòa-Hảo, ngày 1-4 Canh-Thìn

( Đức Thầy viết bài nầy vì Ngài tiên-tri rằng Ngài sẽ xa cách bổn-đạo.

Quả thật ngày 12-4 Canh-Thìn nhà chức-trách ở Châu-Đốc di Ngài đi Sa-Đéc ).



[trang chủ|Phật giáo|tin mới|Chat|plog|3G Media|Wapmaster]
Copyright © 2008 by giaitri24h.wapgem.com All rights reverved to Phu Thanh , Tam Nong Dong Thap . Pro